Bổ sung Vitamin và khoáng chất cho phụ nữ có thai
Dinh dưỡng là yếu tố rất quan trọng đối với sức khỏe, thể lực và trí tuệ của con người trong suốt cả vòng đời, đặc biệt là trong thời gian mang thai. Phụ nữ có thai cần thêm nguồn dinh dưỡng cho cả mẹ, hình thành và phát triển thai nhi. Dinh dưỡng tốt khi mang thai là một trong các yếu tố quyết định bảo đảm sức khỏe cho bà mẹ, sự lớn lên và phát triển của trẻ.
Thiếu hụt dinh dưỡng trong quá trình mang thai có thể làm tăng nguy cơ bị tai biến sản khoa và sinh non/nhẹ cân. Đặc biệt, sự thiếu hụt một số vi chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn khi mang thai như acid folic, iod có thể dẫn đến dị tật ống thần kinh hoặc các tật thiểu năng trí tuệ.
( Ảnh minh họa )
Ở Ninh Bình cũng như nhiều tỉnh thành khác tại Việt Nam, việc sử dụng thuốc nhằm mục đích an toàn, hiệu quả, hợp lý, tiết kiệm là một trong những nội dung quan trọng trong quản lý. Ninh Bình là một tỉnh nằm ở vị trí chiến lược, phía cuối của miền bắc tiếp giáp với miền trung. Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Ninh Bình được thành lập vào tháng 4/2010, hiện nay Bệnh viện đang được xếp hạng là một bệnh viện hạng II với quy mô 440 giường bệnh với số giường thực kê là trên 800 giường. Với đặc thù là một bệnh viện chuyên khoa tuyến cuối của tỉnh với hai chuyên ngành là Sản phụ và Nhi khoa, hàng năm bệnh viện tiếp nhận hàng nghìn lượt sản phụ không chỉ trên địa bàn tỉnh đến khám và điều trị tại bệnh viện mà còn đón nhận các bệnh nhân ở các tỉnh lân cận như Nam Định, Hòa Bình, Thanh Hóa…mỗi năm bệnh viện đón khoảng 10.000 – 12.000 trẻ sinh ra.
Đến với Bệnh viện Sản Nhi, các thai phụ sẽ được bác sĩ thăm khám, tư vấn làm các xét nghiệm và giải thích cụ thể về tình trạng của thai phụ đồng thời tư vấn cho các sản phụ sử dụng loại thuốc phù hợp trong thời kỳ mang thai, đặc biệt là các thuốc vitamin và khoáng chất nhằm tăng cường sức khỏe thai nhi.
Canxi: Có vai trò quan trọng tham gia cấu tạo khung xương cho thai nhi và đảm bảo cho nhu cầu canxi của thai phụ. Khi có thai, nhu cầu canxi tăng lên 1200mg/ngày cao hơn khi chưa mang thai (800mg/ngày). Cách tốt nhất là sử dụng canxi từ thực phẩm. Sữa là nguồn cung cấp canxi tốt nhất, hàm lượng tương đối nhiều (100- 120mg/100ml sữa nước pha chuẩn), tỷ lệ hấp thu cao; Các thức ăn hải sản như tôm, cua, ngao, sò và trứng có hàm lượng canxi cũng khá phong phú. Việc uống canxi nên được tiến hành vào buổi sáng (sau bữa ăn sáng khoảng 1 giờ) hoặc buổi trưa với nhiều nước, giúp chúng ta có cơ hội tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời (da tổng hợp vitamin D cho cơ thể), giúp hấp thu canxi hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, khi bổ sung canxi, cần sự vận động của cơ thể để lượng canxi đưa vào có thời gian kịp chuyển vào đích là khung hình thành canxi oxalate dễ tăng nguy cơ gây sỏi thận, sỏi tiết niệu. Không nên bổ sung quá nhiều canxi trong một lần mà nên chia làm nhiều lần trong ngày.
Kẽm: Tham gia vào phát triển chiều cao của trẻ từ trong bào thai và tăng miễn dịch cho trẻ. Nguồn cung cấp kẽm tốt nhất là thịt, cá, thủy hải sản, đặc biệt là nhuyễn thể như: ốc, hến, trai, trùng trục hay nghêu sò… Các thức ăn thực vật cũng có kẽm nhưng hàm lượng thấp và hấp thu kém. Thiếu kẽm gây nên vô sinh, sẩy thai, sinh non hoặc sinh già tháng, thai chết lưu gần ngày sinh và sinh không bình thường.
Iod: Thiếu iod ở phụ nữ thời kỳ mang thai có thể gây sảy thai tự nhiên, thai chết lưu, đẻ non. Khi thiếu iod nặng, trẻ sinh ra có thể bị đần độn với tổn thương não vĩnh viễn. Trẻ sơ sinh có thể bị các khuyết tật bẩm sinh như liệt tay hoặc chân, nói ngọng, điếc, câm, mắt lác. Nguồn thức ăn giàu iốt là những thức ăn từ biển như cá biển, sò, rong biển… Ngoài ra, phụ nữ có thai nên sử dụng muối, bột canh có tăng cường iốt. Nhu cầu khuyến nghị Iod ở phụ nữ có thai là 220 mcg/ngày,
Sắt: Tham gia quá trình tạo máu, có nhiều trong thịt màu đỏ, trứng, trong đậu đỗ các loại, vừng lạc và các rau củ màu xanh đậm. Sắt do các thức ăn động vật cung cấp dễ hấp thu hơn nguồn sắt từ các thức ăn thực vật. Do nhu cầu sắt của người phụ nữ tăng cao khi mang thai nên khẩu phần hàng ngày không thể đáp ứng được. Vì vậy, phụ nữ có thai cần được uống bổ sung viên sắt (60mg sắt nguyên tố/ngày) hoặc viên đa vi chất theo qui định. Tình trạng thiếu sắt dẫn đến thiếu máu ở người mẹ ảnh hưởng đến mức tăng cân của mẹ trong thời gian mang thai cũng như cân nặng của trẻ sơ sinh làm tăng nguy cơ bị biến chứng sản khoa. Sắt hấp thu tốt nhất khi dạ dày rỗng (lúc đói). Vì vậy, nên uống viên sắt trước bữa ăn 30 phút. Vitamin C có tác dụng giúp cơ thể hấp thụ sắt tốt hơn, do vậy có thể uống nước cam để tăng hấp thu chất sắt vào cơ thể.
Cần tránh các thức uống gây kích thích như trà, cà phê, nước giải khát có gas vì chúng cản trở quá trình hấp thụ của sắt. Không uống sắt cùng với canxi vì các khoáng chất này cản trở sự hấp thụ lẫn nhau trong cơ thể, nên bổ sung vào những thời điểm khác nhau trong ngày. Nên uống các loại vitamin và khoáng chất vào thời điểm phù hợp để có hiệu quả cao nhất và tránh được các tương tác bất lợi.
( Ảnh minh họa )
Vitamin A: Ngoài các tác dụng như sáng mắt, tăng đề kháng, còn có tác dụng hỗ trợ tăng trưởng giúp trẻ có chiều cao tối ưu theo tiềm năng di truyền. Thiếu vitamin A sẽ làm tăng tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm trùng và tử vong, gây khô mắt, có thể dẫn đến mù lòa vĩnh viễn nếu không được điều trị kịp thời. Chế độ ăn của phụ nữ có thai cần đảm bảo đủ nhu cầu vitamin A trong suốt thời gian mang thai. Sữa, trứng… là nguồn vitamin A động vật, dễ dàng hấp thu và dự trữ trong cơ thể. Các loại rau xanh, nhất là rau ngót, rau dền, rau muống và các loại củ quả có màu vàng, màu đỏ như cà rốt, đu đủ, xoài, bí đỏ, là những thức ăn có nhiều beta caroten vào cơ thể sẽ chuyển thành vitamin A. Chế độ ăn đủ chất béo sẽ giúp tăng hấp thu vitamin A và các vitamin tan trong chất béo khác như vitamin D, E, K. Tuyệt đối không uống vitamin A liều cao (200.000IU) trong thai kỳ vì có thể gây dị dạng thai nhi.
Vitamin D: Giúp hấp thu và chuyển hóa các chất khoáng cần thiết như can xi, phospho vào cơ thể, khi mang thai nếu cơ thể thiếu vitamin D dễ gây các hậu quả như trẻ còi xương ngay trong bụng mẹ hay trẻ đẻ ra bình thường nhưng thóp sẽ lâu liền. Những phụ nữ có thai nên dành thời gian tắm nắng khoảng 20- 30’/ngày hoặc bổ sung vitamin D 15mcg/ngày, sử dụng các thực phẩm giàu vitamin D như phomát, cá, trứng, sữa, hoặc các thực phẩm có tăng cường vitamin D. Ngoài ra người mẹ có thể phòng còi xương cho con bằng cách uống vitamin D 200.000 IU khi thai được 7 tháng.
Vitamin B1: Là yếu tố cần thiết để chuyển hóa glucid. Ngũ cốc và các loại hạt họ đậu là nguồn cung cấp vitamin B1. Để có đủ vitamin B1 nên ăn gạo không giã trắng quá, không bị mục, mốc. Ăn nhiều đậu đỗ là cách tốt nhất để bổ sung đủ vitamin B1 cho nhu cầu của cơ thể và chống lại bệnh tê phù.
Vitamin B2: Giúp cơ thể tạo năng lượng, thúc đẩy sự phát triển của thai nhi; tốt cho tế bào thị giác, tham gia trong quá trình hình thành da, tạo máu. Vitamin B2 còn đóng vai trò quan trọng đối với phát triển xương, cơ, tế bào thần kinh của trẻ. Vì vậy cung cấp đủ vitamin B2 là rất cần thiết cho bà mẹ mang thai. Vitamin B2 có nhiều trong thức ăn động vật, sữa, các loại rau, đậu… Các hạt ngũ cốc toàn phần là nguồn B2 tốt nhưng bị giảm đi nhiều qua quá trình xay xát.
Vitamin C: Có vai trò lớn trong việc làm tăng sức đề kháng của cơ thể, hỗ trợ hấp thu sắt từ bữa ăn, góp phần phòng chống thiếu máu do thiếu sắt. Vitamin C có nhiều trong các quả chín. Rau xanh có nhiều vitamin C nhưng bị hao hụt nhiều trong quá trình nấu nướng. Vitamin C nên được uống vào cùng bữa ăn sẽ hấp thu tốt nhất. Do vitamin C chỉ tồn tại trong máu vài giờ nên không sử dụng toàn bộ liều uống vào một thời điểm mà nên chia nhỏ liều tương ứng với các bữa ăn trong ngày. Trường hợp người bị đau dạ dày thì nên uống vitamin C sau bữa ăn. Không nên uống vitamin C quá muộn vào buổi tối, vì vitamin C có tính kích thích cao, gây khó ngủ.
Magie: Magie có tác dụng giải độc thai nghén. Magie có nhiều trong các loại rau xanh, chứa nhiều chất diệp lục, lúa mỳ, các loại quả cứng, các loại đậu (đỗ), thịt, hải sản… cũng rất dồi dào magie. Khi theo thức ăn vào cơ thể, thường chỉ khoảng 30-40% lượng Magie được hấp thu và Vitamin D3 là chất có tác dụng giúp cơ thể hấp thu magie tốt hơn.
( Ảnh minh họa )
Các vitamin nhóm B: Đây là những vitamin có thể hòa tan trong nước, đóng vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi chất của cơ thể, đặc biệt là quá trình chuyển hóa carbohydrate thành đường và chuyển hóa chất béo. Nhóm này giúp tăng cường năng lượng, giảm stress… Khi uống vitamin nhóm này nên uống vào buổi sáng, trước bữa ăn là tốt nhất, giúp tăng cường năng lượng vào ngày mới.
Vitamin tổng hợp: Sau bữa ăn sáng hoặc trưa là thời gian thích hợp để uống vitamin nhóm B, C và vitamin tổng hợp. Hàm lượng chất béo trong bữa ăn sẽ giúp các vitamin và vi chất dinh dưỡng tan trong chất béo được cơ thể hấp thu một cách tốt nhất.
Các vitamin tan trong dầu như A, D, K, E: Nên uống trong bữa ăn vì lượng chất béo có trong bữa ăn sẽ hòa tan các chất này, giúp cơ thể hấp thu tối đa.
Dược sĩ: Đinh Thị Thu Hương – Khoa Dược
Bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình